Thụy Sĩ là một trong những trung tâm giáo dục có truyền thống lâu đời và hệ thống giáo dục có chất lượng tốt nhất trên thế giới.
Tên chính thức là liên bang Thụy Sĩ (tiếng La tinh là Confoederatio Helvetica). Vì vị trí địa lý ở trung tâm châu Âu và không giáp biển nên Thụy Sĩ được coi như “trái tim” của châu Âu, giáp với Ý, Áo, Đức, Pháp và công quốc Liechtenstein. Vì vậy nền văn hóa của Thụy Sĩ cũng chịu ảnh hưởng của những quốc gia kể trên. Ngôn ngữ phổ biến nhất ở Thụy Sĩ là tiếng Đức (được sử dụng bởi 64 % dân số), kế đến là tiếng Pháp và tiếng Ý; ngoài ra tiếng La tinh cũng được sử dụng nhưng không phổ biến. Thụy Sĩ có nền kinh tế phát triển cao và là một trong những quốc gia có chất lượng sống tốt nhất thế giới, nổi tiếng và đi đầu trong lĩnh vực ngân hàng-tài chính và du lịch. Ngoài ra ngành công nghiệp sản xuất đồng hồ của Thụy Sĩ nổi danh khắp nơi trên thế giới với những nhãn hiệu như Swatch, Rolex, Omega, Oris, Zodiac … Thụy Sĩ là một quốc gia trung lập, yên bình, được chọn là nơi đặt trụ sở chính của Ủy ban Chữ Thập Đỏ Quốc Tế, Tổ chức Thương Mại Thế Giới, v..v. Thành phố lớn nhất của Thụy Sĩ là Zurich còn thủ đô là Bern.
Dân số: 7,7 triệu dân
Thu nhập bình quân đầu người: $57,328/năm
Những thành phố đông dân nhất: Zurich, Geneva, Basel
Diện tích: 41,300 km2
Ngôn ngữ chính: Đức, Pháp, Ý
Tôn giáo chính: Thiên Chúa Giáo La Mã (41.8%), Tin Lành (35,3%), ngoài ra còn có Hồi giáo, Do Thái giáo, v..v
1/ KINH TẾ
Thụy Sĩ không có nguồn tài nguyên nào khác trừ nước ngọt từ những dòng sông băng, các sông ngòi, ao hồ nên kinh tế Thụy Sĩ chủ yếu phụ thuộc vào ngành xuất khẩu với giá trị gia tăng cao. Và Thụy Sĩ cũng là quốc gia xuất khẩu đứng hàng thứ 15 trên thế giới.
Những công ty lớn của Thụy Sĩ ví dụ ngành dược phẩm có thể bán được 2 % sản lượng của họ ở thị trường trong nước.
Lượng nước ngọt dư thừa trước hết sử dụng vận hành các nhà máy dệt. Một lượng nước lớn được ưu tiên sử dụng trong ngành công nghiệp nhuộm.
Những tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực xây dựng những nhà máy thủy điện, động cơ điezen cho tàu thủy và đầu máy điện giúp Thụy Sĩ xuất khẩu những mặt hàng này đi khắp nơi trên thế giới.
Một chiếc đồng hồ là một ví dụ tốt về khái niệm giá trị gia tăng điều khiển nền kinh tế Thụy Sĩ. Các công ty Thụy Sĩ không chọn sản xuất hàng lọat những mặt hàng tiêu dùng rẻ tiền vì nó đòi hỏi phải nhập khẩu nguyên liệu thô đắt tiền không đem lại lợi ích cạnh tranh với các thị trường khác trên thế giới. Giá nguyên liệu thô để sản xuất một chiếc đồng hồ không nhiều nhưng chính việc thiết kế, sản xuất, quảng cáo đã tạo nên giá trị của chiếc đồng hồ.
Những tập đoàn lớn, nổi tiếng của Thụy Sĩ “người khổng lồ” Nestle, dược phẩm Novartis & Roche, ngân hàng UBS và Credit Suisse, tập đoàn bảo hiểm Winterthur & Zurich.
2/ GIAO THÔNG
Thụy Sĩ có hệ thống giao thông phát triển cao, vời hệ thống đường bộ dày đặc và hệ thống tàu hỏa thuận tiện, hiệu quả. Hàng trăm đường hầm và cầu kỹ thuật cao bảo đảm giao thông cho đất nước nhiều đồi núi này, đặc biệt những đường hầm xuyên núi Alps giúp rút ngắn quãng đường từ phía Bắc đến phía Nam châu Âu. Tiêu biểu là đường hầm cho tàu hỏa Saint Gotthard và Lotschberg, Saint Gotthard là đường hầm dành cho xe ô tô dài nhất the61v giới và cũng là đường giao thông huyết mạch của châu Âu để băng qua núi Alps. Để bảo vệ khu vực núi đồi này khỏi những tác động xấu của việc lưu thông quá tải, chính phủ Thụy Sĩ đã hạn chế mật độ phương tiện lưu thông vào khu vực này.
Chất lượng hệ thống đường cao tốc ở Thụy Sĩ đứng đầu thế giới với tổng chiều dài đường bộ là 71,214 km (năm 2004). Số người sở hữu xe ô tô của Thụy Sĩ rất cao và đang tăng lên. Xe buýt cũng là một phương tiện giao thông công cộng quan trọng và rất nổi tiếng ở Thụy Sĩ, những tuyến xe buýt sơn màu sáng được điều hành bởi Hiệp hội xe khách Thụy Sĩ. Lịch trình của xe buýt được điều chỉnh phù hợp với giờ khởi hành của những tuyến tàu hỏa và những tuyến xe buýt này được sắp xếp gần làng và những thị trấn
Dù Thụy Sĩ là quốc gia không giáp biển nhưng chính phủ liên bang cũng thành lập đội thương thuyền quốc gia gồm 32 tàu lớn và vô số thuyền bè hoạt động ở những cảng nước ngoài và cảng Basel ở song Rhine. Đặc biệt những du thuyền sang trọng của Thụy Sĩ nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Rhine là con sông lớn nhất nhưng chỉ phù hợp cho những hoạt động thương mại hàng hải giữa Basel và Rheinfelden.
Hãng hàng không quốc tế lớn nhất Thụy Sĩ là Swiss International Airlines thuộc sở hữu của tư nhân và nhà nước. Những sân bay quốc tế của Thụy Sĩ là Zurich, Geneva và Basel.
3/ Y TẾ VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI
Bộ luật bảo hiểm liên bang năm 1911 qui định về bảo hiểm tai nạn và bệnh tật. Bảo hiểm tai nạn là bắt buột đối với hầu hết những viên chức và công nhân. Chế độ bảo hiểm y tế bắt buộc không còn tồn tại ở cấp độ liên bang, tuy nhiên một số bang và công xã vẫn duy trì chế độ này. Bảo hiểm thất nghiệp được yêu cầu đối với tất cả những người công nhân. Bảo hiểm nhân thọ trong đó bao gồm những phúc lợi cho người tàn tật bắt buộc phải có từ năm 1948, quỹ bảo hiểm này được duy trì bằng thuế thu nhập của cả những công nhân và chủ doanh nghiệp.
4/ PHONG TỤC CỦA THỤY SĨ
- Ẩm thực
Buổi sáng thường là bữa ăn nhẹ gồm vài loại bánh mì tươi, phó mát, mứt và cà phê. Bữa ăn chính theo truyền thống là bữa trưa, thường có một món chính với thịt và vài món từ khoai tây hay mì, rau củ và salad. Người ta thường dùng buổi tối nhẹ trong khoảng 6 giờ đến 7 giờ tối, thường là món sandwich. Ở những vùng nông nghiệp lớn, người ta có xu hướng dùng bữa chính vào buổi chiều.
Người dân Thụy Sĩ cũng thích kết hợp nghệ thuật ẩm thực của mình với các nước ở khu vực nói tiềng Đức, Pháp, Ý để tạo nên một phong cách ẩm thực độc đáo. Phó mát fondue (phó mát trộn với rượu và vụn bánh mì) có mặt ở khắp mọi miền đất nước và những phần phó mát nhỏ mềm tan (được gọi là Raclette) được dùng với khoai tây luộc và rau quả ngâm chua.
Món thịt thường được dùng chung với những loại sốt béo và những món thịt nguội thường được dùng làm món tráng miệng. Cá tươi luôn có sẵn ở những vùng ao hồ. Hầu hết các vùng đều có những đặc sản bao gồm xúc xích, súp, phó mát, bánh và những món ăn không thể tìm thấy ở những vùng khác trên đất nước.
Ví dụ, vùng Ticino luôn tự hào về những món ăn kiều Ý của họ. Theo phép lịch sự, mọi người chỉ bắt đầu ăn khi chủ nhà và những người lớn tuổi vào bàn. Sau đó mọi người sẽ nói “En Guete” để chúc mọi người ăn ngon miệng. Nĩa được xếp bên tay trái và dao bên tay phải. Hai tay phải luôn để trên bàn và những dụng cụ được đặt cạnh nhau trên dĩa khi ăn xong.
- Xã giao
Hầu hết mọi người đều bắt tay để chào nhau và theo nghi thức truyền thống thì tước vị và họ được dùng nhiều hơn các đất nước ở phía Tây châu Âu. Mặc dù giới trẻ ngày nay thích sử dụng tên hơn, nhưng thanh niên thường chỉ dùng tên riêng đối với các thành viên trong gia đình và bạn bè. Những cử chỉ chào hỏi thay đồi theo những nhóm ngôn ngữ khác nhau và cũng theo thời gian trong ngày cũng như những tình huống khác nhau.
Mọi chuyến viếng thăm đều phải sắp xếp trước, người Thụy Sĩ hiếm khi ghé thăm ai mà không thông báo trước. Những vị khách thường đem theo một món quà nhỏ đặc biệt là trong lần đến thăm đầu tiên.
- Giải trí
Người Thụy Sĩ thích những hoạt động ngoài trời như đi bộ, trượt tuyết và leo núi. Đá banh, quần vợt, bơi lội, câu cá, trượt băng và những môn thể thao dưới nước cũng rất phổ biến mặc dù có những hạn chế về tốc độ thuyền ở vài vùng hồ. Một số ít người Thụy Sĩ cũng thích những môn thể thao truyền thống, độc đáo của đất nước mình. Ví dụ, một loại hình của môn đấu vật được gọi là Schiwingen vẫn còn duy trì ở vài vùng. Nó cũng tương tự với môn vật ở Hy-La, nhưng không có những hạng cân nặng. Cũng giống như những đất nước khác, mọi người thích xem Tivi và đến rạp chiếu phim. Hàng loạt những hoạt động nghệ thuật, âm nhạc và lễ hội được tổ chức ở nhiều thành phố suốt mùa hè.
- Lễ hội
Những ngày lễ chính thức bao gồm: tết Dương Lịch, (01/01), Phục Sinh (từ thứ 5 đến thứ 2), lễ Thăng Thiên, lễ Hiện Xuống (chủ nhật và thứ 2 thứ 7 sau lễ Phục Sinh), ngày Độc Lập (ngày 1 tháng 8), ngày Cầu Nguyện của liên bang (kì nghỉ lễ Tạ Ơn tháng 9), lễ Giáng Sinh (ngày 25 tháng 12) và ngày 26 tháng 12. Tất cả những vùng còn lại, ngày Quốc Tế Lao Động cũng là ngày nghỉ.
Ở Thụy Sĩ, ngày lễ Thăng Thiên cũng được gọi là “Banntag” hoặc ngày đánh dấu (Boundary Day) mà theo truyền thống mọi người sẽ kiểm tra những cột mốc ranh giới tài sản của họ và cầu phúc cho vùng đất của họ.
Giáng Sinh là ngày lễ lớn nhất của năm. Vào ngày lễ vọng Giáng Sinh, mọi thành viên trong gia đình đều tập họp lại để dự tiệc và trao đổi quà cho nhau. Họ sẽ nghỉ ngơi vào ngày Giáng Sinh và thăm bạn bè vào ngày 26 tháng 12. Ngày giao thừa (ngày 31 tháng 12) cũng là ngày lễ thánh Sylvester, người cuối cùng chưa thức sẽ bị đánh thức bằng một tiếng hét “Sylvester”. Vào buổi chiều, mọi người tổ chức tiệc, đốt pháo hoa và chuông nhà thờ ngân vang đánh dấu một năm mới bắt đầu.
5. HỆ THỐNG GIÁO DỤC
Thụy Sĩ là trung tâm giáo dục có truyền thống lâu đời và hệ thống giáo dục có chất lượng tốt nhất trên thế giới. Tỉ lệ người biết đọc viết là gần 100 %. Triết gia Jean Jacques Rousseau ở thế kỉ 18 đưa ra cách nhìn tiến bộ về giáo dục, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thể hiện cá nhân. Các trường công lập hoàn toàn miễn phí và giáo dục bắt buộc đối với trẻ em từ 6 hoặc 7 tuổi cho đến 15 hoặc 16 tuổi tùy theo qui định của từng bang. Ngôn ngữ sữ dụng giảng dạy tùy thuộc vào từng địa phương. Để đẩy mạnh sự thống nhất trên toàn quốc, học sinh tiểu học được học thêm ngoại ngữ thứ 2 của quốc gia.
Thụy Sĩ có hệ thống giáo dục nghề danh tiếng với bằng cấp có chất lượng đào tạo kỹ thuật cao. Hầu hết những trường đại học của Thụy Sĩ do chính phủ Bang quản lý bao gồm trường đại học Basel (thành lập năm 1460), trường đại học Lausanne (1537), trường đại học Geneva (1559), trường đại học Zurich (1833), trường đại học Fribourg (1889) và trường đại học Neuchâtel (1909). Chính phủ liên bang chỉ quản lý những học viện cao học như: Federal Institutes of Technology tại Zürich và Lausanne. Chất lượng giáo dục tuyệt vời của Thụy Sĩ nổi tiếng và thu hút nhiều sinh viên từ khắp nơi trên thế giới.